Lóng rày trên mạng đồn rùm lên về việc sáp nhập, trong đó tên gọi SÀI GÒN sẽ trở lại trong định danh thành phố (?). Nhà nước chưa có thông báo chánh thức, thành thử không cần bàn về tin đồn này làm chi!

Điều tôi mong muốn chia sẻ là hai chữ “SÀI GÒN” cho đến hiện nay vẫn sống trong ký ức biết bao thế hệ…

TÊN GỌI “SÀI GÒN” CÓ TRƯỚC 1 THẾ KỶ RƯỠI SO VỚI TÊN GỌI “HÀ NỘI”

/1/ Vào năm 1834, Hoàng đế Minh Mạng ban hành tên gọi “Hà Nội” (河內).

/2/ Trong Phủ biên tạp lục của Lê Quí Đôn có đoạn ghi chép như sau: “Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và Lũy Sài Gòn vào NĂM 1674”. Hai chữ 柴 棍 được dùng, để ghi cách gọi là: “SÀI GÒN”.

/3/ “SÀI” được viết: 柴. Ở đây, chữ Nôm được cấu tạo theo cách “đồng âm dị nghĩa”.

柴: âm Hán-Việt là “sài”, âm Nôm cũng đọc “sài” (đồng âm); nghĩa của “sài” (Hán-Việt) là củi khô, cành khô.

"GÒN” được viết: 棍 . Ở đây, chữ Nôm cấu tạo theo lối “dị âm dị nghĩa”.

棍: âm Hán-Việt là “côn”, nhưng âm Nôm đọc thành “GÒN” (dị âm); nghĩa của “côn” (Hán-Việt) là cây gậy.

/4/ Không lẽ, nếu mang nghĩa trong Hán-Việt, sẽ là …“cây gậy củi”, “củi gậy”?

Chúng ta đang đứng trước một qui luật gọi là “tiếp biến ngôn ngữ”, như sau:

4a) Vào năm 1620, vua Chân Lạp là Chey Chettha II lấy công chúa Ngọc Vạn, ái nữ của chúa Nguyễn Phước Nguyên, mở ra cơ hội cho người Việt thâm nhập vào đồng bằng châu thổ sông Mekong bấy giờ thuộc Chân Lạp.

Năm 1623, vua Chân Lạp đồng thuận theo yêu cầu của chúa Nguyễn là chúa Nguyễn có quyền mở những trạm thu thuế tại vùng Prey Nokor.

4b) “Prey” ព្រៃ, nghĩa là “rừng rậm”; “Nokor” នគរ, nghĩa là “vùng, hoặc vương quốc".

“Prey” phát âm gần với /rai/, “nokor”: /no/ đọc lướt, rất nhẹ, /kor/ phát âm gần với /gor/. => Prey Nokor đọc gần như /rai gor/. Trong cuốn Histoire de la Mission Cochinchine (Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ), năm 1747, có ghi chép: “vùng Rai Gon”… biến âm “Rai Gon” thành “Sài Gòn”.

Đến đây, quí bạn ắt tỏ tường về “nguyên tắc dị nghĩa” trong cấu tạo hai chữ Nôm 柴 棍 :

  • Phiên âm từ “Prei” thành “SÀI”, ghi lại như sau: 柴, mang nghĩa là “rừng rậm” (dị nghĩa so với nghĩa gốc “củi” của 柴);

  • Phiên âm từ “Nokor” thành “GÒN”, ghi lại như sau: 棍 , mang nghĩa là “vùng” hoặc “vương quốc” (dị nghĩa so với nghĩa gốc “cây gậy” của 棍).

/5/ Lưu dân người Việt đã có mặt nơi đây còn lẻ tẻ, nhưng thành “đợt”, “luồng lưu dân” có qui mô là vào NĂM 1658 (sau khi công chúa Ngọc Vạn đã trở thành hoàng hậu Chân Lạp).

Lưu dân người Việt đã gọi biến âm “Prey Nokor” thành “Sài Gòn”. Cách gọi “SÀI GÒN” được thấy xuất hiện, ghi lại trong Phủ biên tạp lục (nêu ở phần đầu bài viết): “… vào NĂM 1674”.

Như vậy, tên gọi “Hà Nội” được đặt vào năm 1834, tên gọi “SÀI GÒN” đã xuất hiện trước năm 1674, có thể là vào năm 1658. Tức là “SÀI GÒN” đã có trước tên gọi “Hà Nội” khoảng 160-170 năm!


Hình ảnh (cột trái, trên): Bài SÀI GÒN trích trong sách DẤU (tác giả Nguyễn Chương-Mt - Dương Kiều)


  • Ghi chú thêm:

Vào năm 1679, chúa Nguyễn đã cho Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch gốc Quảng Đông kéo hơn 3.000 người vào định cư, lập nghiệp tại vùng lãnh thổ này.

Tức là người Tàu đến đây SAU người Việt ít nhứt hai mươi năm (1679 so với 1658).

Người Tàu (gốc Quảng Đông) nghe người Việt đọc tên vùng này là “Sài Gòn” => họ phiên âm qua tiếng Quảng Đông, đọc hao hao là “Xây Gồng” => họ ghi phiên âm bằng chữ Hán: 西 貢.

Hai chữ 西 貢, đọc theo âm Quảng Đông là /Xây Gồng/, âm Hán-Việt của hai chữ này là “Tây Cống”.

  • Trình tự trước sau theo thời gian:

cách đọc của người Khmer: Prey Nokor ព្រៃ នគរ => cách đọc của người Việt: SÀI GÒN (chữ Nôm: 柴棍) => sau đó, mới có cách đọc của người Tàu (người Minh hương): “Xây Gồng” (西貢, “Tây Cống” theo âm Hán-Việt).